XtGem Forum catalog
Chương 4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ, BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Quy luật ra đời chung của các Đảng Cộng sản trên thế giới là gì?
(Quy luật ra đời chung của các Đảng Cộng sản trên thế giới là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân).
- Quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là gì? Nó có điểm gì giống và khác quy luật ra đời chung của các Đảng Cộng sản trên thế giới?
(Quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điểm giống giữa quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam và quy luật ra đời chung của các Đảng Cộng sản trên thế giới là có sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Điểm khác là trong quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam có thêm yếu tố là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã khẳng định sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam).
- Tại sao trong quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam lại có thêm yếu tố là phong trào yêu nước?
(Giáo trình).
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cần phải có những nhân tố, yếu tố nào? Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi?
(Để đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cần phải có nhiều nhân tố, yếu tố như phải có đường lối cách mạng đúng, phải động viên được lực lượng của toàn dân thực thi đường lối,v.v.. Nhưng muốn xây dựng được đường lối cách mạng đúng, muốn vận động và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối đó thì phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh viết: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”).
- Theo Hồ Chí Minh, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam có thể đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam?
(Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam có thể đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam vì Đảng “là đội tiền phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. “Bao giờ Đảng cũng tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh như thế nào?
(Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế lịch sử chứng minh. Trong Cách mạng Tháng Tám, cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản luôn là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng).
3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta như thế nào? Theo Người cái gì quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng?
(Ngay từ khi Đảng mới ra đời, Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Người đã viết: “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp”. Theo Người, cái quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng không phải là số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân nhiều hay ít mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, ở mục tiêu, đường lối của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ở việc Đảng tuân thủ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà lãnh tụ Lênin đã đưa ra).
- Điểm khác biệt giữa bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam với bản chất của các Đảng Cộng sản trên thế giới là gì?
(Điểm khác biệt là Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam”. Người đã khẳng định điều này xuất phát từ quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ mục tiêu phấn đấu của Đảng, của cách mạng, cũng như từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng).
- Luận điểm khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã đưa ra có ý nghĩa như thế nào trong việc xây dựng Đảng ta?
(Luận điểm khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam đã định hướng cho việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng có sự gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ phát triển của cách mạng Việt Nam.
Tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên, dù thuộc giai cấp, tầng lớp nào cũng đều thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình, tự hào với niềm tự hào của Đảng và thấy mình có trách nhiệm trong việc xây dựng Đảng. Đây là điều mà không phải Đảng nào cũng có được).
4. Về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
- Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền?
(Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội).
- Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền theo quan điểm của Hồ Chí Minh là gì?
(Về vấn đề này, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”).
- Trong mối quan hệ với nhân dân, theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền có vị trí như thế nào?
(Người khẳng định: “Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Xác định “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn thể nhân dân và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, định hướng chính sách và thông qua bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối, định hướng chính sách đó. Muốn lãnh đạo được nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải có tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết, phải đi đường lối quần chúng… Tóm lại là, phải được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Nhưng toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng là để phụng sự cho lợi ích của nhân dân dân. Với ý nghĩa đó, Đảng chính là đầy tớ của nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi hoạt động phải ý thức sâu sắc rằng mình là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, phải tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Để thực hiện được điều đó, Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; phải thực sự thấm nhuần đạo đức, lý tưởng cách mạng.
Như vậy, “vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” chính là vị trí của Đảng trong mối quan hệ với dân. Sứ mệnh chính trị của Đảng có được hoàn thành hay không chính là ở chỗ Đảng có giữ vững được vị trí này hay không).
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
1. Xây dựng Đảng - Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Để có một chính Đảng mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Người coi đây là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Điều khẳng định này được Người lý giải theo các căn cứ sau:
- Cách mạng là một quá trình liên tục. Thực tiễn cách mạng đặt ra cho mỗi thời kỳ, giai đoạn những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể, phù hợp. Đảng là tổ chức lãnh đạo cách mạng nên phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới để theo kịp và định hướng các yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của quá trình cách mạng. Trong suy nghĩ và nhận thức của Hồ Chí Minh, Đảng ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất nước và dân tộc, Đảng phải thật sự là “một cơ thể sống” luôn biết tự hoàn thiện và vượt lên.
- Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành của cơ cấu xã hội; mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ với cái tiêu cực, lạc hậu. Để toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên hấp thụ được những cái tốt, cái tiến bộ, đề kháng với cái xấu, cái tiêu cực từ ngoài môi trường xã hội không có cách nào khác ngoài việc Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
- Đảng “không phải là thần thánh”, những con người bình thường giác ngộ lý tưởng cách mạng vào trong Đảng mà thành Đảng. Mà đã là con người thì ai cũng có hai mặt: tốt - xấu, thiện - ác, đúng - sai thường xuyên đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh đó không thể không tác động đến tổ chức Đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng chính là để giúp toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên phát triển cái tốt, cái thiện, cái đúng, loại bỏ dần cái xấu, cái ác, cái sai ở trong bản thân mình, qua đó mà không ngừng tiến bộ, vươn lên, làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
- Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lại càng được Hồ Chí Minh coi là công việc phải tiến hành thường xuyên hơn. Bởi lẽ, Người đã nhìn thấy tính chất hai mặt của quyền lực: một mặt, quyền lực có tác dụng to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền bị thoái hóa, biến chất, đi vào con đường lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành dặc quyền, đặc lợi của cá nhân, v.v.. Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền Nhà nước.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự chỉnh đốn, tự đổi mới của dân tộc, của Đảng, của mỗi con người, Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
2. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
a) Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Trên cơ sở phân tích nhiều học thuyết, chủ nghĩa khác nhau, Người đã lựa chọn chủ nghĩa “làm cốt” cho Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin. Người viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận theo Hồ Chí Minh chính là làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng và cách mạng nước ta. Để hiểu và vận dụng cho đúng vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh yêu cầu:
Một là, Đảng không được máy móc theo câu chữ của Mác, của Lênin, mà cơ bản là phải nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hai là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với trình độ, tính chất công việc chuyên môn, nghề nghiệp, vị trí công tác… của từng đối tượng.
Ba là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng hoàn cảnh, vừa phải tránh xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phải tránh giáo điều, cứng nhắc.
Bốn là, trong quá trình hoạt động, trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin, Đảng cần tiếp thu những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc, tinh hoa văn của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các nước, đồng thời phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm của mình góp phần bổ sung, phát triển kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Năm là, Đảng phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - lênin. Chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin; chống những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - lênin.
b) Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội dung, bao gồm: xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị… Trong đó, quan trọng nhất là xây dựng đường lối chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triển cho toàn xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cho cả quá trình cũng như cho từng giai đoạn cách mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải luôn xuất phát từ thực tiễn tình hình trong nước và thế giới, từ tâm tư và nguyện vọng của nhân dân, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - lênin, tri thức của nhân loại tiến bộ, kinh nghiệm của các nước để đề ra đường lối chiến lược, sách lược phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng.
Người cũng lưu ý Đảng phải thường xuyên giáo dục đường lối, chính sách, thông tin thời sự kịp thời cho cán bộ, đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên, cũng như hàng triệu nhân dân lao động.
c) Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
- Hệ thống tổ chức của Đảng: Hồ chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở phải thật chẽ, có tính kỷ luật cao.
Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi lẽ chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên; chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
- Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng:
+ Tập trung dân chủ
Hồ Chí Minh gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc xây dựng Đảng thành một tổ chức chặt chẽ. Theo Hồ Chí Minh, “tập trung” và “dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai vế của một nguyên tắc. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung chứ không phải là dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức. Tập trung là tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải là tập trung quan liêu theo kiểu độc đoán, chuyên quyền.
Về tập trung, Người nhấn mạnh: phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Còn dân chủ, Người khẳng định, đó là “của quý báu nhất của nhân dân”, là thành quả của cách mạng. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.
+ Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Người khẳng định lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
+ Tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc này. Người coi đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là luật phát triển của Đảng. Người khẳng định đây là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Đó cũng là vũ khí để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, giúp Đảng làm tròn trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc.
Để rèn luyện đảng viên và toàn Đảng một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi đảng viên, mỗi cấp bộ đảng phải thực hiện tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên, liên tục, thẳng thắn, chân thành và “có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”.
+Kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời, đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Người viết: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”.
Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Điều lệ Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng.
+Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Người thường nêu những yêu cầu như: phải dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, nghị quyết của tổ chức Đảng các cấp; mở rộng dân chủ nội bộ, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình; thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng.
- Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ, công tác cán bộ. Người nhận thức rõ về vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Người coi “cán bộ là gốc của mọi công việc”, là “cái dây chuyền của bộ máy”, “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của nó bao gồm: Tuyển chọn, giáo dục, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
d) Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân.
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thậ sự cần, kiệm, liêm, chính, cí công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sáng, Đảng ta mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung qua trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn thực sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nội dung công tác xây dựng Đảng, phù hợp với truyền thống, văn hóa, lịch sử của các nước phương Đông trong đó có Việt Nam.
KẾT LUẬN (Giáo trình).
Chương 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc có vị trí, vai trò như thế nào?
(+ Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc được xem là vấn đề sống còn của cách mạng Việt Nam, là tư tưởng chiến lược xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội).
+ Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận dúng đắn, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đoàn kết trong mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.
- Nêu một số luận điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh đã đưa ra nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc?
(Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã nêu lên một số luận điểm có tính chân lý như:
+ Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”.
+ Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt…”.
+ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”).
b. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu cách mạng
- Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng là gì? Nêu mối quan hệ giữa mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu đó với các mục tiêu, nhiệm vụ khác của Đảng, của cách mạng?
(Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng là đại đoàn kết dân tộc. Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 3 năm 1951, Người đã thay mặt Đảng tuyên bố trước đồng bào rằng: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ Quốc”.
Mục tiêu tổng quát của toàn bộ cách mạng Việt Nam theo Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Để thực hiện mục tiêu đó, Người đã đề ra nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phải giải quyết trong từng thời kỳ, giai đoạn. Nhưng muốn thực hiện tất cả các mục tiêu đó thì phải phát huy được lực lượng của toàn dân, nghĩa là phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng phải là xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc).
- Hồ Chí Minh yêu cầu việc xác định đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng phải được quán triệt cụ thể như thế nào?
(Người yêu cầu việc xác định đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của cách mạng phải được quán triệt trong tất cả đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, qua mọi giai đoạn của quá trình cách mạng. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền, huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”).
- Theo Hồ Chí Minh, việc Đảng xác định đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu đã đủ để xây dựng trên thực tế khối đại đoàn kết dân tộc chưa? Giải thích tại sao?
(Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi đại đoàn kết dân tộc chỉ có được khi nó là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng. Chỉ khi quần chúng nhân dân nhận thức được, muốn hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình, do mình và vì mình, trước hết mình phải đoàn kết lại, phải đồng tâm nhất trí thì khối đại đoàn kết dân tộc mới trở thành hiện thực).
2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ những ai? Đại đoàn kết dân tộc theo Hồ Chí Minh thực chất là gì?
(Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ “mọi con dân nước Việt”, mỗi một người “con rồng cháu tiên”, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện”. Đại đoàn kết dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. “Ta” ở đây vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung).
b. Những yêu cầu trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
- Để xây dựng hiệu quả khối đại đoàn kết toàn dân, Người đã đưa ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc nào?
(Để xây dựng hiệu quả khối đại đoàn kết toàn dân, Người đã đưa ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc sau:
+ Phải kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc, phải có tầm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh cho rằng ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối nhưng đã biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đoàn kết với họ.
+ Phải quán triệt phương châm “cầu đồng, tồn dị”. Tìm điểm chung của tất cả mọi người để tập hợp mọi người vào khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Bên cạnh đó, chấp nhận và tôn trọng điểm khác biệt của mỗi người, tạo điều kiện cho mỗi người phát triển cái riêng của mình mà không làm ảnh hưởng đến cái chung.
+ Phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc, phải xác định nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công nông và lao động trí óc. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng).
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
a. Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
- Tại sao Hồ Chí Minh lại chủ trương đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức?
(Bởi vì cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu không, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh).
- Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những chủ trương như thế nào?
(Để xây dựng trên thực tế tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng đối tượng quần chúng và từng bước phát triển của cách mạng, đồng thời Người chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp tất cả các tổ chức và cá nhân yêu nước phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng chung).
b) Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
Để Mặt trận hoạt động một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc hoạt động nào?
(Để Mặt trận hoạt động một cách hiệu quả, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc hoạt động sau:
- Mặt trận phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông và lao động trí óc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
+ Tại sao nói đây là nguyên tắc cốt lõi trong xây dựng khối đại đoàn kết của Hồ Chí Minh?
+ Nêu mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công - nông - trí thức?
+ Đảng và Mặt trận có quan hệ với nhau như thế nào? Tại sao hoạt động của Mặt trận lại phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản? Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cái gì? Bằng phương pháp nào?
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
+ Tại sao Mặt trận dân tộc thống nhất lại phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân?
+ Lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân mà Hồ Chí Minh đã xác định trong thời kỳ của mình có điểm gì giống và khác so với thời kỳ hiện nay?
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm bảo đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
+ Nguyên tắc hiệp thương dân chủ là gì? Tại sao Mặt trận lại cần phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ?
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ là tất cả các vấn đề phải được bàn bạc một cách dân chủ trong tổ chức, sau đó các thành viên trong tổ chức thương lượng, thoả thuận với nhau để đi đến thống nhất ý kiến và hành động. Mặt trận phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ vì Mặt trận là một tổ chức chính trị - xã hội bao gồm trong đó nhiều tổ chức chính trị - xã hội khác nhau, độc lập và bình đẳng với nhau. Để đi đến nhất trí trong các công việc của Mặt trận thì các tổ chức này phải cùng nhau bàn bạc một cách dân chủ, rồi thương lượng, thoả thuận với nhau. Cơ sở để đi đến nhất trí là sự thống nhất giữa lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân.
- Hoạt động đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tại sao hoạt động đoàn kết trong Mặt trận lại phải lâu dài và chặt chẽ? Đoàn kết lâu dài ở đây là bao lâu? Đoàn kết chặt chẽ ở đây là đoàn kết như thế nào?
Mặt trận phải xây dựng sự đoàn kết lâu dài và chặt chẽ vì sự nghiệp cách mạng là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có những khó khăn, thử thách to lớn. Để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng thì phải huy động lực lượng, phát huy sức mạnh của toàn dân trong mọi thời kỳ, giai đoạn. Do vậy, Mặt trận phải xây dựng khối đại đoàn kết lâu dài và chặt chẽ. Đoàn kêt lâu dài ở đây là phải xuyên suốt quá trình cách mạng. Đoàn kết chặt chẽ ở đây là phải đoàn kết từ các gia đình, dòng họ, đơn vị sản xuất, cơ quan, tổ chức, địa phương,v.v.. cho đến cả nước; phải đoàn kết trên tất cả các mặt hoạt động: kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự, ngoại giao,v.v...
- Hiểu thế nào về đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ?

trang 4